Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

Phát bồ đề tâm là gì? làm sao để phát tâm bồ đề

Phát bồ đề tâm là gì? làm sao để phát tâm bồ đề? Bồ đề tâm dưới gốc nhìn nhà Thiền




Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Làm tất cả các thiện pháp mà quên mất tâm bồ đề đều là hành động của ma”. Chẳng hạn như bố thí, cúng dường, làm các thiện pháp mà quên mất bồ đề tâm thì đó là ma sự chứ không phải Phật sự, vì trong các việc đó có ngã, có nhân, có chủ có khách, có hơn có thua, làm đến đâu chấp đến đó. Trên tinh thần nhân quả, làm các việc thiện đó cũng có phước, nhưng là phước hữu lậu, phước sanh diệt. Còn làm với tâm bồ đề là làm tất cả các thiện pháp mà tâm không có trụ, không chấp trước.

Chúng ta biết con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát là đi từ mê đến giác. Muốn phát khởi được Bồ đề tâm, quý vị phải luôn quán chiếu thứ nhất là mình có phúc duyên may mắn được làm thân người, sáu căn đầy đủ, duyên may thứ hai là chúng ta biết được chánh pháp mà Đức Phật chỉ dạy. Quán chiếu sâu sắc như thế thì tâm bồ đề của chúng ta phát khởi.

Vua Trần Thái Tông dạy: “Trong lục đạo, chỉ có người là quý, đến khi nhắm mắt đi rồi mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến, hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, chẳng được làm người. Đây là cái khó thứ nhất”.

Cho nên chúng ta phải thấy rằng mình có phúc duyên may mắn được làm thân người để tu, còn nếu sanh vào ba đường ác, khổ quá cũng không tu được.

Trong Thiền môn cảnh tỉnh truyện có ghi: Có một vị thánh tăng ở núi Kế Tân, dù có thể tọa thiền nhập định rất lâu nhưng Ngài thường phát tâm xuống bếp nấu cơm cho đại chúng. Một hôm, có hai vị Tăng từ xa nghe tiếng tăm của Ngài nên muốn đến gặp, thấy một vị Tăng đang chụm lửa đốt lò ở hang dưới. Hai vị khách tăng hỏi thăm về vị thánh tăng, Ngài chỉ lên hang thứ ba ở phía trên. Họ liền đi lên tìm. Ngài dùng thần thông bay trở về chỗ phòng mình. Hai vị tăng vừa vào gặp thấy đúng là người vừa nãy ở dưới bếp chụm lò nấu cơm, ngạc nhiên liền hỏi tại sao Ngài đã nổi tiếng mà vẫn còn phải tự mình làm bếp nấu cơm như vậy? Ngài nói nếu chặt cả tay chân làm củi nấu cơm cho đại chúng ăn Ngài cũng làm, vì Ngài nhớ lại 500 kiếp về trước đều làm thân chó thường bị đói khát, khổ sở, chỉ có hai lần được no đủ nhưng đều bị mất thân mạng. Lần thứ nhất là có người uống rượu say, ói mửa ra, con chó ăn xong bị bệnh chết. Lần thứ hai làm chó trong một gia đình hai vợ chồng nghèo, một hôm hai vợ chồng nấu cháo để trong nồi rồi đi ra ngoài, con chó vì đói quá nên chui đầu vào trong nồi, ăn no nhưng sau đó không rút đầu ra được. Ông chồng về tức giận lấy dao chém đứt đầu. Cho nên Ngài quán chiếu lại các kiếp trước của mình đã từng phải làm súc sanh, chịu khổ vô cùng nên giờ được làm người, được tu tập chứng quả nên xả bỏ thân này ngàn vạn lần cho chúng sanh Ngài cũng không tiếc.

Bây giờ chúng ta chưa được như Ngài, nhưng chúng ta nương câu chuyện này để biết rằng biết đâu
trong thời quá khứ, chúng ta đã từng làm bò, làm heo, làm chó. Do một túc duyên may mắn nào đó mà hiện nay được làm thân người, cho nên chúng ta phải tranh thủ phát khởi tâm bồ đề, làm các thiện pháp, tu tập chuyển hóa nội tâm để thành Phật độ chúng sanh.

Vua Trần Thái Tông dạy tiếp: “Đã được thân người lại sanh nơi mọi rợ, tắm thì đồng sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ti không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hóa, đây là cái khó được thứ hai”.

“Đã được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm ngọng, què, thọt, còng gù, miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp, Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân, tuy ở nơi phồn thịnh, dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó thứ ba”.

Quý vị thử kiểm lại nơi mình, có bị mù không, có bị điếc không, có bị câm ngọng, què, gù không… nếu không thì đó là duyên may của quý vị.

Trong Nghệ thuật sống có kể một người thanh niên làm ăn thua lỗ, tuyệt vọng muốn tự tử chết. Trên đường đi ngang một khúc sông, anh gặp một ông cụ già thấy anh bộ dạng thất thểu nên hỏi thăm. Ông cụ sau khi nghe xong câu chuyện của anh, nói: “Nếu anh có can đảm thì bán cho tôi cặp mắt của anh ra, tôi sẽ trả anh 1 triệu đô la”. Anh này suy nghĩ một triệu đô la thì rất nhiều, có thể giúp anh lúc đang khó khăn này nhưng nếu không có cặp mắt thì làm được gì, cho nên không bán. Ông già lại tiếp tục đề nghị anh bán hai cánh tay với giá 2 triệu đô la, anh này nghĩ có hai triệu đô la mà không có tay cũng chẳng làm được gì nên không bán. Ông già tiếp tục đề nghị mua hai chân của anh với giá 4 triệu đô la, anh nghĩ số tiền đó rất nhiều nhưng nếu không có chân để đi lại thì cũng khó khăn nên cũng không đồng ý bán. Lúc này, ông già hỏi anh thanh niên trong con người mình có bao nhiêu tiền và anh kêu nghèo là nghèo chỗ nào? Nghe xong, anh thanh niên sực tỉnh, không tìm tới cái chết nữa.

Chúng ta có cặp mắt thấy hết tất cả thiện, ác, thiện chúng ta làm, ác chúng ta tránh, rồi mình còn có may mắn được nhìn thấy hình ảnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, đã chỉ ra con đường hạnh phúc và an lạc cho chúng sanh. Rồi chúng ta có hai bàn tay để làm các việc thiện pháp. Cho nên đôi khi chúng ta thấy những đau khổ dồn dập đến với mình, nhưng thực ra trên cuộc đời này còn có rất nhiều chúng sanh phải chịu đau khổ gấp trăm, gấp ngàn lần mình. Quán tưởng sâu sắc như vậy thì mình không còn khổ nữa, mà còn thấy mình may mắn vì đã được làm người, biết đến Chánh pháp và lợi ích của việc phát bồ đề tâm, để mình sống một ngày có giá trị của một ngày, sống một tháng có giá trị của một tháng.

Khi làm các thiện pháp như bố thí, cúng dường…, chúng ta không mong cầu phước báo trời, người mà phải phát nguyện lực lớn là nhờ việc bố thí, cúng dường… ngày hôm nay làm trợ duyên để thành tựu quả vị tối thượng, quả vị Phật. Đó là phát bồ đề tâm chân chính.

“Nay đã làm thân người, được sanh nơi phồn thịnh, lại đầy đủ sáu căn đâu chẳng là quý sao? Người đời luôn đuổi theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem thân mạng quý báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng khinh”.

Có những người làm ăn bất chính, kiếm tiền một cách phi pháp rồi sau đó mang tiền đi bố thí, cúng dường, quý vị nghĩ họ có phước không, có chuộc lại tội họ đã làm không? Cũng có phước, nhưng mai này tái sanh vào loài thú, và vì có phước nên cũng được ăn sung mặc sướng, hưởng mọi thứ đầy đủ nhưng mang thân thú, không có cơ hội tu tập.

Chúng ta không có nhiều tiền cũng được, nhưng biết ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, sám hối rồi hồi hướng cho chúng sanh cũng đủ, đâu cần mình phải làm việc này, việc nọ làm nhọc xác tổn thần, rồi tạo bao nghiệp xấu để tự mình gánh chịu.

“Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi nào có khác gì. Tuy thân mạng thật là quí trọng, vẫn chưa quí trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử nói: “Sớm nghe đạo chiều chết cũng vui. Lão Tử nói: “Tôi sở dĩ có hoạn lớn, vì tôi có thân.” Thế Tôn thuở xưa cầu đạo xả thân cứu cọp đói. Đâu chẳng phải ba bậc Thánh nhân đều khinh thân mà trọng Đạo đó sao? Than ôi! Thân mạng thật là quí trọng còn phải xả để cầu Vô thượng Bồ-đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại tiếc sao?”

“Đã nghe lời này, cần phải gắng học, chớ nên nghi ngờ chậm trễ. Kinh nói: “một phen mất thân người, muôn kiếp chẳng được lại”, thật là thống thiết. Cho nên Khổng Tử nói: “Người không chịu làm, tôi chẳng làm gì, cam đành thôi vậy.”

Một khi mất thân người rất khó được trở lại, giống như rùa mù gặp bọng cây. Quán chiếu như vậy để chúng ta phát bồ đề tâm, làm các thiện pháp và cố gắng tu tập để chuyển hóa nội tâm.


Trong Thiền môn cảnh tỉnh truyện có ghi, có một vị thánh tăng ở Tây quốc tên là Xà dạ đa, một hôm Ngài dắt đồ chúng vào trong thành. Khi đến cửa thành, ngài bỗng buồn, không được vui. Giây lát đi tới trước, trên đường gặp một con quạ, bỗng dưng ngài mỉm cười. Đệ tử lấy làm lạ thưa hỏi, nhân đó Ngài thuật lại chuyện để nói nguyên do: Ban đầu ở dưới cửa thành ngài thấy một con ngạ quỷ con đói quá mệt lả, nó đợi mẹ vào thành kiếm thức ăn đến nay đã 500 năm rồi, bụng đói trống trơn rất khốn khổ, mạng chẳng còn bao lâu. Đến khi vào thành Ngài gặp quỷ mẹ. Quỷ mẹ nói: “Tôi từ biệt vào thành đã lâu để tìm thức ăn mà chẳng được, khi được chút ít đồ khạc nhổ thì bị các con quỷ mạnh cướp đi. Mới ngày hôm nay gặp một người ói mửa mà không có con quỷ nào khác, tôi định muốn đem về cho con, nhưng ở dưới cửa thành lại có nhiều quỷ thần, sợ bị giành đoạt mất nên chẳng dám mang ra. Nguyện Tôn giả từ bi ngầm đem tôi ra khỏi thành để mang những đồ người ói ra cho con cùng ăn”. Ngài lại hỏi rằng: “Từ khi sanh đến nay được bao lâu rồi?”. Quỷ mẹ đáp: “Tôi thấy thành này bảy lần thành rồi lại hoại”. Ngài nghe nó nói rất đau buồn cho việc sanh tử không có bờ mé do đó lộ vẻ buồn bã chẳng vui.

(Trích bài đăng từ TV. Trúc lâm Chánh Thiện)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

SỰ MÀU NHIỆM CỦA VIỆC NIỆM PHẬT